Vì sao người giàu, thu nhập hàng tỷ đồng vẫn tranh suất mua và sở hữu nhà ở xã hội?

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng "người giàu tranh suất mua nhà ở xã hội" là do các tiêu chí về điều kiện của các đối tượng hưởng chính sách về nhà ở xã hội tưởng chừng "rất chặt chẽ", nhưng thực ra là chưa chặt chẽ, chưa sát với thực tế cuộc sống và có thể "lách".

Góp ý bổ sung một số quy định về chính sách nhà ở xã hội (NƠXH) của Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Bộ Xây dựng, Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) chỉ thẳng các nguyên nhân khiến nhiều người giàu, đi ô tô vẫn "đủ điều kiện khó khăn" để mua nhà ở xã hội.

Vì sao người giàu, đi ô tô và có thu nhập hàng tỷ đồng vẫn mua được nhà ở xã hội? - Ảnh 1.

Một dự án NƠXH tại TP Thủ Đức đang được khởi công. Ảnh: Quang Duy

Tiêu chí "điều kiện về nhà ở" của chính sách nhà ở xã hội chưa chặt chẽ (!?)

Theo ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch HoREA, có 3 vấn đề thuộc tiêu chí "điều kiện về nhà ở" của đối tượng hưởng chính sách nhà ở xã hội tưởng chừng rất chặt chẽ, nhưng thực ra là chưa chặt chẽ.

Thứ nhất, Điểm a khoản 1 Điều 51 Luật Nhà ở 2014 và điểm a khoản 1 Điều 75 Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) đều quy định đối tượng hưởng chính sách nhà ở xã hội "phải chưa được hưởng chính sách hỗ trợ dưới mọi hình thức tại nơi ở và nơi làm việc".

Quy định này rất khó kiểm tra trong nhiều năm qua, nhất là đối với người thay đổi nơi làm việc nhiều lần, do chỉ quy định kiểm tra tiêu chí này tại nơi ở và nơi làm việc.

"HoREA kỳ vọng trong thời gian tới, sau khi thực hiện hoàn thành Đề án 06 'Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030' thì mới kiểm tra được điều kiện đối tượng hưởng chính sách nhà ở xã hội "phải chưa được hưởng chính sách hỗ trợ dưới mọi hình thức tại nơi ở và nơi làm việc", ông Châu nói.

Thứ hai, Điểm a khoản 1 Điều 51 Luật Nhà ở 2014 và điểm a khoản 1 Điều 75 Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) đều quy định đối tượng hưởng chính sách nhà ở xã hội "phải chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình, chưa được mua hoặc thuê mua nhà ở xã hội" hoặc "có nhà ở thuộc sở hữu của mình nhưng diện tích nhà ở bình quân đầu người trong hộ gia đình thấp hơn mức diện tích nhà tối thiểu".

Vì sao người giàu, đi ô tô và có thu nhập hàng tỷ đồng vẫn mua được nhà ở xã hội? - Ảnh 2.

HoREA chỉ thẳng các nguyên nhân khiến nhiều người giàu, đi ô tô vẫn mua được nhà ở xã hội. Ảnh minh họa: Quốc Hải

"Nếu một người nào đó muốn 'lách' thì không khó khi 'người đó' để cho người thân khác đứng tên dùm sở hữu nhà. Như vậy, người đó sẽ chứng minh được mình 'chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình' hoặc 'có nhà ở, nhưng ở chật", ông Châu lập luận.

Thứ ba, Điểm a khoản 1 Điều 75 quy định điều kiện của đối tượng hưởng chính sách nhà ở xã hội "phải chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình, chưa được mua hoặc thuê mua nhà ở xã hội, chưa được hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở dưới mọi hình thức tại nơi sinh sống, làm việc".

Tuy nhiên, một người cũng có thể chuyển đổi nơi sinh sống, làm việc nhiều lần, nên quy định này cũng không chặt chẽ.

"Người giàu" thu nhập 2,4 tỷ đồng/năm vẫn được mua nhà ở xã hội

Ngoài tiêu chí "điều kiện về nhà ở" chưa chặt chẽ, Chủ tịch HoREA cũng chỉ ra những "lỗ hổng" về tiêu chí "điều kiện về thu nhập" của đối tượng hưởng chính sách nhà ở xã hội.

Cụ thể, Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) cho phép miễn thuế thu nhập cá nhân đối với 16 trường hợp, trong đó tại khoản 7 và khoản 8 Điều 4 quy định miễn thuế thu nhập cá nhân đối với các trường hợp: Thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và Thu nhập từ kiều hối.

HoREA nhận thấy, đối với khoản thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm của người về hưu, già yếu, mất sức lao động, hoặc số tiền kiều hối có giá trị không lớn để cải thiện cuộc sống thì quy định miễn thuế thu nhập cá nhân là rất chính xác và nhân văn.

Kiếm tiền tỷ từ "nghề tay trái" vẫn được mua nhà ở xã hội

"Trong thực tế, nhiều người làm thêm "nghề tay trái", mà "nghề tay trái" này lại tạo ra thu nhập cao hơn, thậm chí cao hơn nhiều lần so với thu nhập của "nghề tay phải" thể hiện trên bảng tiền lương, tiền công chính thức, nên "người này" vẫn hội đủ tiêu chí "điều kiện về thu nhập" (không thuộc diện nộp thuế thu nhập cá nhân) để được mua, thuê mua nhà ở xã hội.

Bởi lẽ, Luật Nhà ở chỉ quy định đối tượng hưởng chính sách nhà ở xã hội "phải thuộc diện không phải nộp thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập từ nhà tiền công, tiền lương", mà không tính "các khoản thu nhập khác không phải là tiền công, tiền lương" - ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch HoREA.

Tuy nhiên, quy định này sẽ không hợp lý khi cho miễn, không đánh thuế TNCN đối với các khoản thu nhập rất lớn từ lãi tiền gửi tiết kiệm hoặc từ kiều hối từ các đối tượng khác.

Ví dụ 1: Ông A gửi tiết kiệm 50 tỷ đồng kỳ hạn 13 tháng với lãi suất tiết kiệm 9%/năm nên cuối năm được nhận lãi tiền gửi 4,5 tỷ đồng. Hoặc, ví dụ 2: Ông B thường xuyên nhận được tiền kiều hối, năm nay ông B nhận được khoản tiền kiều hối 100.000 USD tương đương 2,4 tỷ đồng.

Căn cứ quy định tại khoản 7 và khoản 8 Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân thì ông A và ông B đều "được miễn thuế thu nhập cá nhân".

Nếu ông A và ông B "chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình" mà lại có "lòng tham" thì ông A và ông B lại hội đủ điều kiện "chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình" và "không thuộc diện không phải nộp thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập từ nhà tiền công, tiền lương", mà "thu nhập từ lãi tiền gửi" và "thu nhập từ kiều hối" cũng không phải là "các khoản thu nhập từ nhà tiền công, tiền lương".

Vì vậy, ông A và ông được công nhận là đối tượng hưởng chính sách về nhà ở xã hội, được mua, thuê mua nhà ở xã hội.

"Từ ví dụ trên, có thể thấy đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng "người giàu tranh suất mua nhà ở xã hội" hoặc có "người giàu ở lẫn" trong các chung cư nhà ở xã hội trong thời gian qua", ông Châu lý giải.

Do đó, HoREA đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 7 và khoản 8 Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân theo hướng giao thẩm quyền cho Chính phủ quy định các trường hợp miễn thuế thu nhập cá nhân đối với một số khoản "thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng" hoặc "thu nhập từ kiều hối".

Đồng thời, sửa đổi khoản 1 Điều 75 Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.